Ngày 11/10/2019, Đoàn Đại biểu Quốc hội
tỉnh Đồng Nai có văn bản số 112/ĐĐBQH gửi Sở Xây dựng về việc góp ý dự thảo
Luật Đầu tư theo phương pháp đối tác công tư, sau khi nghiên cứu nội dung dự
thảo, Sở Xây dựng đã có ý kiến góp ý như sau:
- Tại Điều 5 của dự thảo về lĩnh vực đầu
tư: cần xem lại việc đầu tư trụ sở cơ quan nhà nước cần nêu rõ đầu tư trung tâm
hành chính tập trung (không nên đầu tư trụ sở cơ quan riêng biệt); xử lý chất
thải nên quan tâm đến chất thải sinh hoạt (do chất thải công nghiệp hiện tại
các chủ đầu tư khu xử lý hợp đồng xử lý có thu lợi nhuận đối với các chủ nguồn
thải tại các khu, cụm công nghiệp).
- Tại Khoản 2 Điều 5 của dự thảo quy
định quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP không thấp hơn 200 tỷ đồng
trừ dự án theo hợp đồng kinh doanh – quản lý (chủ yếu dự án cung cấp dịch vụ,
không có cấu phần xây dựng) như vậy các dự án có tổng mức đầu tư dưới 200 tỷ
đồng, nhất là các dự án trong lĩnh vực y tế, giáo dục, giao thông, khoa học
công nghệ ở khu vực nông thôn, khu vực cần sự đầu tư phát triển đảm bảo an sinh
môi trường xã hội thì nếu thực hiện theo hình thức PPP cần thực hiện như thế
nào, nhất là những dự án này hiện nay cần khuyến khích đầu tư, do đó cần nghiên
cứu việc giải quyết vấn đề này.
- Tại Điều 13 của dự thảo quy định 3 cấp
thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư là Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, tuy nhiên tại Điều 7 của dự thảo quy định về cơ
quan nhà nước có thẩm quyền gồm nhiều cơ quan, như vậy dự thảo chưa phân định
thẩm quyền rõ ràng giữa cấp Bộ - cấp tỉnh, dễ dẫn đến việc không rõ thẩm quyền
quyết định chủ trương đầu tư, nhất là các dự án do tư nhân đề xuất do đó cần bổ
sung nội dung phân định rõ thẩm quyền giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
Bộ - cấp tỉnh.
- Tại Điều 11 của dự thảo đã có quy định
về công khai thông tin nhưng toàn bộ nội dung dự thảo chưa quy định việc lấy ý
kiến cộng đồng trước khi quyết định chủ trương đầu tư cần thiết lấy ý kiến đóng
góp cho dự án phải được tổng hợp, giải trình, cần bổ sung thêm thông tin phải
công bố như các báo cáo thẩm định dự án, báo cáo hoạt động của dự án, doanh thu
của các dự án thu tiền trực tiếp từ người sử dụng.
- Tại Chương VII của dự thảo: điều khoản
về đảm bảo đầu tư khi có sự thay đổi do pháp luật đã được quy định tại Điều 13
của Luật Đầu tư nhưng mới chỉ dừng lại ở sự thay đổi văn bản pháp luật về ưu
đãi đầu tư, trong khi đó các dự án PPP đòi hỏi sự ổn định về môi trường đầu tư,
nhất là khi có sự thay đổi của pháp luật, do đó đề nghị bổ sung điều khoản bảo
đảm đầu tư khi có sự thay đổi của pháp luật như: văn bản pháp luật mới có quyền
lợi và ưu đãi cao hơn hay bất lợi hơn đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; có
áp dụng hay không áp dụng khi văn bản pháp luật thay đổi vì lý do quốc phòng,
an ninh quốc gia, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe môi trường của cộng
đồng và trường hợp này có áp dụng bồi thường như thế nào…
- Tại Điều 79 của dự thảo quy định một
số biện pháp bảo đảm đầu tư nhưng chưa đưa ra quy định về phòng ngừa và quản lý
rủi ro.
- Dự thảo chỉ quy định về quy trình,
chưa quy định về thời gian cho mỗi khâu thực hiện, trách nhiệm thực hiện tại
mỗi khâu.
- Tại Điều 8 của dự thảo quy định về
nguyên tắc quản lý đầu tư theo phương thức PPP cần bổ sung thêm nội dung: Chính
phủ, các Bộ ngành, UBND cấp tỉnh phải công bố các dự án thu hút xúc tiến đầu
tư, công bố các khu vực phát triển đô thị, các dự án cần kêu gọi đầu tư và đồng
thời là công bố các khu vực cần đầu tư xây dựng khu dân cư, khu đô thị, khu
chức năng để từ đó việc công khai việc đầu tư theo PPP rộng rãi tránh tối đa
thực tế hiện nay hầu như các dự án do nhà đầu tư đề xuất, nhất là đề xuất các
khu đất để đối ứng, việc đầu tư dự án PPP mang lại lợi ích trực tiếp hoặc gián
tiếp đến quỹ đất đối ứng cho nhà đầu tư (ví dụ đầu tư tuyến đường giao thông và
chính tuyến đường này tiếp cận mang giá trị cho chính khu đất mà nhà đầu tư đề
xuất làm khu đất để đối ứng, nhất là dự án BT). Việc này cũng tránh dẫn đến
việc đầu tư thiếu cân bằng, phát triển không ổn định giữa đô thị và nông thôn,
khu vực nóng...
Nguyễn Thị Vĩnh An